Bức tranh tổng thể của ngành sản xuất thức ăn chăn nuôi mùa dịch Covid-19

Ngành sản xuất thức ăn chăn nuôi đã có những bước tiến mạnh mẽ, góp phần quan trọng thúc đẩy phát triển ngành chăn nuôi, tuy nhiên nếu nhìn một cách tổng thể còn tồn tại nhiều bất cập. Điều này được thể hiện rất rõ trong những tháng đầu năm 2020, khi dịch Covid-19 lan rộng toàn cầu, dịch tả lợn châu Phi diễn biến phức tạp.

 

    Ngành thức ăn chăn nuôi có vai trò thúc đẩy ngành chăn nuôi

 

Phụ thuộc quá nhiều vào nguồn nguyên liệu của nước ngoài 

Mặc dù là nước sản xuất và xuất khẩu lương thực nằm ở tốp đầu thế giới, song ngành sản xuất thức ăn chăn nuôi nước ta vẫn phải nhập khẩu 70–80% nguyên liệu từ nước ngoài. Nguyên nhân là do các loại nguyên liệu sản xuất thức ăn như ngũ cốc, đậu tương, khô dầu các loại, phụ gia… hiện Việt Nam sản xuất không đủ hoặc do giá thành quá cao so với sản phẩm nhập khẩu cùng loại. Chính vì vậy, từ nhiều năm nay, ngành sản xuất thức ăn luôn phụ thuộc vào nguyên liệu nhập khẩu, dẫn tới tình trạng thiếu ổn định, dễ bị tổn thương khi có sự cố xảy ra. Ngoài ra, còn ảnh hưởng đến nhiều lĩnh vực khác như:

Ảnh hưởng đến cán cân xuất nhập khẩu nông sản

Theo Tổng cục Hải quan, trong khi mỗi năm Việt Nam xuất khẩu khoảng 6 triệu tấn gạo, trị giá khoảng 2,8 tỷ USD thì lại cần nhập tới trên 15 triệu tấn nguyên liệu sản xuất thức ăn chăn nuôi, trị giá gần 3,8 tỷ USD, như vậy giá trị nhập siêu riêng lĩnh vực lương thực đã lên tới khoảng 1 tỷ USD mỗi năm.

 

Bị động, dễ khủng hoảng khi có sự cố

Do ảnh hưởng của dịch Covid-19 cộng thêm bệnh dịch tả lợn châu Phi chưa ổn định khiến các doanh nghiệp sản xuất thức ăn chăn nuôi bị ảnh hưởng nặng nề khi vừa thiếu nguyên liệu sản xuất, vừa khó tìm thị trường đầu ra cho sản phẩm. Cũng giống như nhiều ngành sản xuất lớn trong nước, có thể nói hiện nay các doanh nghiệp sản xuất thức ăn chăn nuôi đang ở trong giai đoạn khó khăn nhất. Đại dịch Covid-19 đã khiến ngành vận tải biển và đường bộ gặp khó khăn do khâu kiểm soát dịch bệnh khắt khe tại các nước xuất khẩu, thậm chí nhiều nước đã tạm dừng hoạt động dẫn tới tình trạng đứt gẫy chuỗi cung ứng, vì vậy nhập khẩu nguyên liệu thức ăn chăn nuôi của Việt Nam tháng năm 2020 giảm 21 % so với cùng kỳ năm 2019. Hệ lụy là từ đầu năm 2020 đến nay, hầu hết doanh nghiệp giảm sâu sản lượng sản xuất. Một số doanh nghiệp lớn như Công ty C.P Việt Nam, Cargill, GreenFeed… thông thường luôn hoạt động đến 80% công suất thì nay chỉ hoạt động khoảng 30–40% công suất, thậm chí một số dây truyền đã ngừng hoạt động. Lượng nguyên liệu dự trữ cơ bản của các doanh nghiệp chỉ duy trì sản xuất từ nay đến khoảng hết quý III/2020.

 

Ảnh hưởng đến giá cả thực phẩm trong nước, tăng chỉ số lạm phát

Ngoài việc khó khăn về nhập khẩu, giá nguyên liệu tăng lên khá mạnh khiến các doanh nghiệp sản xuất thức ăn chăn nuôi cũng phải tăng giá thức ăn chăn nuôi. Cụ thể, mặt hàng ngô tăng đột biến từ 5.600 đồng/kg lên 7.000 đồng/kg, khô dầu đậu tương tăng từ 9.000 đồng/kg lên 10.200 đồng/kg, thậm chí một số phụ gia như lysine, axít amin thậm chí tăng giá gấp đôi. Chính vì vậy đã kéo giá thức ăn chăn nuôi tại Việt Nam tăng từ 200 – 1.000 đồng/kg. Đây là một trong những nguyên nhân khó giảm giá thịt lợn tại Việt Nam hiện nay dẫn tới tăng chỉ số lạm phát trong những tháng gần đây.

 

Doanh nghiệp nội yếu thế trước doanh nghiệp ngoại 

Theo thống kê của Bộ NN&PTNT, cả nước hiện có khoảng 265 nhà máy sản xuất thức ăn chăn nuôi, trong đó có 85 nhà máy thuộc doanh nghiệp nước ngoài (chiếm tỷ lệ 32%), 180 nhà máy thuộc doanh nghiệp trong nước (chiếm 68%). Mặc dù có số lượng nhà máy chiếm áp đảo, trong đó có một số doanh nghiệp quy mô lớn như Dabaco, Masan, GreenFeed, Vina, Lái Thiêu… nhưng các doanh nghiệp trong nước chỉ chiếm khoảng 35% thị phần cung cấp thức ăn chăn nuôi, 65% thị phần còn lại do các doanh nghiệp nước ngoài nắm giữ.

 

Điều đáng lo ngại hơn, thị phần của doanh nghiệp trong nước đang có nguy cơ ngày một sụt giảm (ước tính giảm 2-3%/năm) trước sự mở rộng quy mô cả về số lượng doanh nghiệp cũng như sản lượng của doanh nghiệp nước ngoài, vì vậy nếu không nhanh chóng thay đổi chiến lược, mảnh đất màu mỡ này sẽ nằm trong tay đối thủ ngoại. Minh chứng rõ ràng là thời gian gần đây trong khi các doanh nghiệp trong nước đang loay hoay thoát khỏi khủng hoảng nguyên liệu thì một số doanh nghiệp nước ngoài có ý định xây dựng thêm nhà máy để tăng sản lượng. Mặt khác, ngoài các tập đoàn lớn từ Thái Lan, Mỹ, Trung Quốc… đã đầu tư vào Việt Nam từ trước thì gần đây một số tập đoàn từ Singapore, Hà Lan, Đức cũng có mong muốn đầu tư vào Việt Nam nên dự báo trong thời gian tới, cạnh tranh để giành thị phần thức ăn chăn nuôi sẽ trở nên khốc liệt hơn rất nhiều.


Trong giai đoạn từ 2008 đến nay, công suất sản xuất thức ăn chăn nuôi của Việt Nam tăng từ 12 triệu tấn lên gần 40 triệu tấn/năm, sản lượng tăng từ 8,5 triệu tấn lên 20,5 triệu tấn/năm nên đã đưa Việt Nam trở thành nước đứng thứ 10 thế giới và số 1 khu vực Đông Nam Á về sản lượng thức ăn chăn nuôi sản xuất công nghiệp, xếp trên cả Thái Lan (18,6 triệu tấn) và Indonesia (18,3 triệu tấn). Theo đánh giá của nhiều chuyên gia trong và ngoài nước, hiện tại, nhu cầu thức ăn chăn nuôi của Việt Nam là khoảng 30 triệu tấn/năm, trị giá 12-13 tỷ USD với mức tăng trưởng trung bình 13–14%/năm nên có thể coi đây là thị trường lớn, còn nhiều tiềm năng phát triển.

Tín hiệu vui 

Ông lớn vào cuộc

Với giá trị thị trường tiềm năng khoảng 10-12 tỷ USD/ năm nên các tập đoàn lớn trong nước như: Masan, Hòa Phát, Hùng Vương, Vingroup cũng bắt đầu có những đầu tư lớn vào ngành sản xuất thức ăn chăn nuôi với mong muốn “lội ngược dòng”, giành lại thị phần từ tay các doanh nghiệp ngoại. Cụ thể, Masan đã mua lại Proconco, Anco vươn lên vị trí cung ứng thức chăn nuôi lớn thứ 2 trên cả nước. Tập đoàn Hòa Phát cũng đã xây dựng và đi vào hoạt động nhà máy chế biến thức ăn chăn nuôi tại Khu công nghiệp Long Khánh với công suất 200 ngàn tấn/năm. Các tập đoàn này đang liên kết tạo thành chuỗi phát triển sang lĩnh vực chăn nuôi, tiêu thụ và bước đầu đã thành công. Từ năm 2018, Vingroup đã mua lại 36% cổ phần của Tập đoàn Việt Thắng và chính thức tham gia vào thị trường này.

 

Đa dạng hóa thị trường nhập khẩu

Thay vì chỉ nhập khẩu từ các thị trường truyền thống như Argentina, Mỹ, Trung Quốc, EU… một số doanh nghiệp đã chuyển hướng mua nguyên liệu Úc, hay từ các nước Đông Âu như Nga, Ukraine… với giá cả tốt hơn, chất lượng không thua kém để giảm dần phụ thuộc vào thị trường cũ, đảm bảo tính ổn định lâu dài cho ngành sản xuất TĂCN trong nước.

Theo: GS.TS Nguyễn Duy Hoan

Đại học Thái Nguyên